Đăng Nhập

Quên mật khẩu

Tìm kiếm nội dung
 

Bài đăng gần đây

» Giới thiệu website về bệnh gan
thanhmai9x 10/10/13, 12:10 am

» Cần tìm bạn gái để đi đến hôn nhân tại Hà Nội
babesophile 07/08/13, 11:02 pm

» Chùa Keo - Thái Bình?
mhdvn2013 24/07/13, 02:42 pm

» ĐÀO TẠO TRUNG CẤP CHẤT LƯỢNG CAO TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP CNTT SÀI GÒN
tuyensinhsitc 01/04/13, 08:45 am

» ĐÀO TẠO TRUNG CẤP CHẤT LƯỢNG CAO TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP CNTT SÀI GÒN
tuyensinhsitc 27/03/13, 03:34 pm

» Trang web luyện thi trắc nghiệm trực tuyến
tungvu1210 24/01/13, 02:19 pm

» Nhật ký Mr Ken
xelu 10/01/13, 11:14 pm

» MU Binhyen SS4
winterpow 20/11/12, 11:51 pm

» Hướng dẫn lập diễn đàn lớp
Admin 02/11/12, 10:28 am

» Bê tông tự trộn
minhtuanabc 30/10/12, 11:14 pm

» Forum Cổng game đáng chú ý nhất tháng 10
Lokier1234 29/10/12, 10:03 am

» Ảnh trường lớp, bạn bè
huongvu89 09/10/12, 11:29 am

» Giúp em với
Đạt 21/09/12, 07:19 pm

» Tặng từ 20- 50% cho các khóa học tiếng anh
ocean_trainingtb 12/09/12, 10:07 am

» Kỳ Lân Kiếm Thế Alpha Test 07-09-2012 [Open ngày 13-09-2012]
doirach88 11/09/12, 03:14 pm

» Tuyển sinh Lập trình viên năm 2012
ipmac_online 22/08/12, 11:36 am

» những phương pháp giải hóa độc đáo của thầy Vũ Khắc Ngọc (cực HOT)
dkx_95 09/08/12, 08:28 pm

» Phim khoa học trẻ em
sachvang 03/08/12, 08:24 pm

» Kiếm thế Free cho anh em !!
fpt0122 30/07/12, 04:46 pm

» Em về với người (Tiêu trúc)
dkx_95 12/07/12, 06:37 am

Top posters
dkx_95 (166)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
Bui Danh Nam (139)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
Admin (37)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
Lylyxinh (31)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
nganha_2410 (17)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
Tuyển (14)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
Tulip_mua_he (12)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
process (10)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
xelu (9)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 
maithanhhp (6)
phân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebarphân tích bài thơ:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG Votebar 

Lượt truy cập

You are not connected. Please login or register

Xem bài cũ hơn  |  Xem bài mới hơn  |  Đầu trang  |  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

dkx_95

dkx_95
Thượng tá
Thượng tá
Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình chính
trị. Thơ văn của ông có sức chiến đấu mạnh mẽ, "đọc thơ văn Phan Bội
Châu, lí trí chưa kịp nhận thức và tán thành thì ngó lại, trái tim đã bị
nó hoàn toàn chinh phục rồi". Giá trị của thơ văn Phan Bội Châu chính
là ở cảm xúc cách mạng chân thành, sôi nổi. Ông nói thẳng và cổ vũ trực
tiếp cho cách mạng. Bài thơ Xuất dương lưu biệt thể hiện những nét đặc
sắc của phong cách thơ tuyên truyền vận động cách mạng của Phan Bội
Châu.

Sinh ra và lớn lên vào thời kì nhạy cảm nhất của lịch sử dân tộc, Phan
Bội Châu chứng kiến cảnh dân tộc lần lượt rơi vào vòng đô hộ của thực
dân Pháp. Ông cũng được chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần vương
nhưng cũng lại được sống trong không khí đổi mới do ảnh hưởng của Tân
thư đang truyền vào Việt Nam một cách mạnh mẽ. Năm 1905, sau khi Duy tân
hội được thành lập, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương sang Nhật để
đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước. Xuất
dương lưu biệt được sáng tác trong buổi chia tay lên đường.

1.Tác giả & tác phẩm

Phan Bội Châu (1867 -1940) là nhà yêu nước và cách mạng của dân tộc Việt
Nam -người từng được đánh giá là "bậc anh hùng, vị thiên sứ được hai
mươi triệu đồng bào trong vòng nô lệ tôn sùng" (Nguyễn ái Quốc, Những
trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu). Ông là đại diện đầu tiên tiêu
biểu nhất cho đội ngũ các nhà cách mạng biết dùng thơ văn như một thứ vũ
khí chiến đấu hiệu quả nhất. Cuộc đời của Phan Bội Châu là một minh
chứng cho lí tưởng "chí nam nhi" của các bậc quân tử phương Đông. Phan
Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình  chính
trị. Thơ ông thể hiện một bầu nhiệt huyết luôn sục sôi của một người mà
lí tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Suốt những năm
trai trẻ đến những ngày làm "ông già Bến Ngự", Phan Bội Châu luôn nung
nấu trong lòng khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng một đất nước dân
chủ tiến bộ.

Lưu biệt khi xuất dương thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà
nho tiên tiến đầu thế kỉ XX : ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và
khát vọng giải phóng dân tộc luôn sôi trào. Bằng một giọng thơ sôi nổi,
đầy hào khí, tác giả đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại, đã
thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng sinh khí mới. Điều
này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam ở
thời điểm cam go nhất.

2.Phân tích

Lưu biệt khi xuất dương được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát
cú Đường luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại
rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ
thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm
người.


Bài thơ là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng về chí làm trai của văn học truyền thống từ thời Phạm Ngũ Lão đến Nguyễn Công Trứ :
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)

Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải
làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của
thế sự. Mở rộng ra nghĩa là con người phải chủ động trước hoàn cảnh.
"Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên nói chung, chứ thực ra,
Phan Bội Châu không phải là người có tư tưởng bảo thủ "trọng nam khinh
nữ". Trong Trùng Quang tâm sử, ông đã thể hiện tư tưởng tiến bộ của mình
qua việc xây dựng một số hình tượng người phụ nữ anh hùng, có chí khí
như cô Chí (Tỏ mặt anh thư). Mở đầu bằng việc khẳng định lí tưởng truyền
thống, tác giả đã tạo nên tâm thế để tiếp tục khẳng định :

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?)

Một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về sức mạnh của con người
trước càn khôn. ý thức về cái Tôi đã được tác giả tận dụng triệt để bằng
cách tạo nên thế đứng đặc biệt : sự ngang hàng giữa "tớ" và “khoảng trăm năm". Đây không phải là sự đề cao
cái Tôi một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này
mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối
với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần
đấu tranh của con người. Là lãnh tụ cách mạng đầy tâm huyết, Phan Bội
Châu là người luôn có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức tranh đấu.
Để đánh thức tầng lớp thanh niên những năm đầu thế kỉ XX đang bị ru ngủ
bởi những trò tiêu khiển được du nhập từ phương Tây, ông đã viết Bài ca
chúc tết thanh niên (1927). Chính từ ảnh hưởng của bài thơ này mà đã có
rất nhiều thanh niên ra đi tìm đường cứu nước.

Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với
dân tộc của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho,
một con người chân chính đã thể hiện ở đây :

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)

Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc
của thơ cổ điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người
chiến sĩ. Vào thời buổi đó của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí
tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị
xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học
thứ văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện
học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời
cuộc. Nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao mà thực hiện được đạo
thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Đất nước tao
loạn, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những
con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng. Trên
thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây
vốn rất xa lạ với người phương Đông đã ồ ạt tràn vào Việt Nam, mang theo
nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo
trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã hội. Và trở thành nỗi đau đời
của các nhà nho vốn coi trọng "tam cương ngũ thường". Non sông bị chà
đạp, dân tộc mất tự do, nền luân lí, đạo đức xã hội bị đảo lộn đã khiến
những người có trách nhiệm với dân tộc như Phan Bội Châu đau lòng. Những
từ như tử (chết), nhuế (nhơ nhuốc), si (ngu) đã thể hiện thái độ khinh
thường của tác giả đối với những kẻ tự ru ngủ mình bằng cách ngồi đọc
sách thánh hiền trong lúc dân tộc đang lầm than, đồng thời khẳng định
khí tiết hiên ngang, bất khuất của một nhân cách cao đẹp.

Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)

Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu
thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi.
Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm
rất cao. Bản dịch chưa dịch hết được tinh thần của nguyên tác ở ba chữ
nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt huyết và cũng tràn đầy
hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào
hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người
trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con
đường mình đã chọn.

Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan
Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện
đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh
niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho
thanh niên  tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất  mọi thời đại. Nhân vật
trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế
kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng
tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.
Lời tạm biệt đầy nhiệthuyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng
ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam.
Và là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình. Đó là
những giá trị bất hủ của Xuất dương lưu biệt.


Bài thơ là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh
liệt, khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tin h thần
chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc của tác giả
Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút
pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng
những tư tưởng cách mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết
hợp với những từ láy gây ấn tượng mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời,
lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu

ĐỀ VĂN THAM KHẢO:
Dàn bài chi tiết : Phân tích bài thơ Xuất Dương lưu biệt

BÀI LÀM
I/ Đặt vấn đề:

Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu từ
biệt các bạn đồng chí lên đường tìm đường cứu nước.Tác phẩm là tiếng
nói hăm hở của một trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục
quốc.

Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo truyền thống "thi dĩ ngôn chí" của
thi ca phương Đông, đó cũng là dấu vết rõ nhất của con người từng theo
đuổi sự nghiệp công danh, thập niên đăng hoả học chữ Thánh hiền của Phan
Bội Châu. Giọng điệu, khí phách cho đến hình tượng thơ còn mang đậm dấu
ấn của thi pháp trung đại nhưng về mặt tư tưởng đã đánh dấu một sự vượt
thoát ra khỏi khuôn khổ suy nghĩ của một trí thức Hán học, đoạn tuyệt
với tư tưởng Nho giáo về căn bản.

II/ Giải quyết vấn đề

1. Tiền giải:

Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời - Há để càn khôn tự chuyển dời -
Trong khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này muôn thuở há không ai (Tôn
Quang Phiệt dịch).

Khi viết nên những dòng thơ này, Phan Bội Châu đã bước sang tuổi 38 -
lứa tuổi đã qua bao thăng trầm, chuẩn bị chớm bước vào tuổi "tứ thập nhi
bất hoặc" - tự tin ở chính mình. Làm trai "tam thập nhi lập", hẳn một
người đã từng đậu Giải nguyên năm Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không
phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai như Giải nguyên Nguyễn
Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng một kiểu: "Thông minh nhất
nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ" (Chí nam nhi). Ông Giải San lúc ấy thừa
điều kiện để đi theo con đường tiền nhân Uy Viễn tướng công, nhưng cuối
cùng con đường của Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ "kỳ"
của Nguyễn Công Trứ bó hẹp trong "bút trận" - thi cử đỗ đạt làm quan,
phụng sự vô điều kiện cho triều đình phong kiến. Phan Bội Châu ít nhiều
chịu ảnh hưởng của quan niệm làm trai thời phong kiến nhưng trong cách
nói vẫn khẳng định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh mẽ của
mình.

Một nguời đã từng ý thức với câu thơ tâm đắc "Lập thân tối hạ thị văn
chương" (Viên Mai) hẳn không chấp nhận bó mình theo quan niệm phong
kiến! Bởi vậy, trong phần tiền giải này, khi nhấn mạnh vào vai trò nam
tử, Phan Sào Nam chẳng qua chỉ mượn một quan niệm có sẵn nhằm khẳng định
cho cái bản ngã đội trời đạp đất hào hùng của chính mình thôi, không hề
có một dấu ấn của con người bổn phận theo lý tưởng làm trai phong kiến.

2. Phần hậu giải:

Dịch thơ: Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng
hoài - Muốn vượt biển Đông theo cánh gió - Muôn trùng sóng bạc tiễn ra
khơi.

Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu
giải này, là bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm lại bạn bè trước
giờ lưu biệt. Đúng ra, với đề tài "lưu biệt", trong thơ xưa vốn dĩ hay
nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu của người trai "chí
chưa thành, danh chưa đạt". Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu luận để
nói về thời thế một cách sâu sắc: ông đạt sự sống chết, vinh - nhục của
một đời trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau
của người dân mất nước. Câu thơ thật thấm thía! Nguyên văn câu thơ chữ
Hán nói về hiền thánh không hề có một chút e dè khi ông phê phán gay gắt
cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ đoạn tuyệt dứt khoát.Nước mất - dân ngu, đó chính là lời kết tội của Phan Bội Châu với cả chế
độ phong kiến và giáo lý Khổng - Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy
đã tiếp tay cho kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Khác với một
Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế khi nếm trải "Vào trường danh lợi vinh
liền nhục" để rồi ao ước "làm cây thông đứng giữa trời mà reo"; khác với
một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và kẻ sĩ cùng thời "Sĩ khí
rụt rè gà phải cáo - Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi" mà vẫn lận đận lều
chõng mong được chen chân vào rồi cay cú "Tám khoa không khỏi phạm
trường qui"; Phan Bội Châu đã xác định con đường khác hẳn. Hai câu kết
hào hùng hiện rõ tư thế bậc đại trượng phu dám phá bung cả khuôn khổ lề
thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai mới mẻ:
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng
khoáng làm sao! Cái hào sảng của trường phong - trận gió dài, cơn gió
mạnh, cái mênh mông của đông hải - gắn với chí lớn con người muốn tát
cạn biển đông đã dồn nén vào một chữ "khứ" - gắn với hành trình ra đi
ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ hào khí của bậc nữ
lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá
kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê thiếp kẻ khác". Tâm nguyện
cứu nước dù gần hai ngàn năm trước hay thời Phan Bội Châu cũng giống
nhau ở ý chí không chịu cúi đầu làm nô lệ một cách nhục nhã. Phan Sào
Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ:
Ngàn con sóng bạc nhất tề cùng bay lên, cả đất trời như đã hoà theo
quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu là
con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu
chờ thời. Không một chút do dự băn khoăn, bài thơ là dự báo về những
việc kinh thiên động địa trong tương lai của người anh hùng khiến cho
thực dân Pháp và bọn bán nước phải run sợ kinh hoàng.

III/ Kết thúc vấn đề:

Khép lại Xuất dương lưu biệt, người đọc nhận ra một khí phách, một nhân
cách của một nhân vật lỗi lạc đầu thế kỷ XX. Bài thơ thổi một luồng sinh
khí vào văn chương thời đại, mở ra những trang đầy hào khí của văn thơ
yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh thần bất khuất của dân tộc trong cuộc
đấu tranh giành độc lập của thế kỷ trước, có giá trị động viên bao thế
hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.


Xem bài cũ hơn  |  Xem bài mới hơn  |  Đầu trang  |  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết



Copyright © Diễn đàn THPT Binh Thanh 2011. Ghi rõ "Nguồn: https://binhthanh.forumvi.com" khi trích dẫn nội dung từ website này.
Đầu trang | Mobile | Liên hệ BQT | Thiết kế bởi Phạm Văn Tuyển

       Vườn Thơ.tk | Đọc truyện